Hậu quả Chia rẽ Tito – Stalin

Trại tù Goli Otok được xây dựng để giam giữ những người bị kết tội ủng hộ Stalin.

Tito đã chọn phương án chống lại Stalin, tin tưởng rằng hệ thống mạng lưới rộng khắp của Đảng Cộng sản Nam Tư, được xây dựng thông qua phong trào du kích trước đây, sẽ ủng hộ ông. Ước tính rằng có tới 20% thành viên của Đảng Cộng sản Nam Tư ủng hộ Stalin thay vì Tito. Nhận thấy điều này, Ban lãnh đạo của Đảng đã tiến hành các cuộc thanh trừng trên diện rộng. Hàng ngàn người bị bỏ tù, bị giết hoặc bị lưu đày.[58] Theo Ranković, 51 nghìn người đã bị giết, bị bỏ tù hoặc bị kết án lao động cưỡng bức.[59] Nhiều địa điểm, bao gồm cả nhà tù thực tế và trại tù ở Stara Gradiška và trại tập trung Ustaše trước đây ở Jasenovac, được sử dụng để giam giữ các tù nhân. Năm 1949, một trại tù đặc biệt cho những người theo Liên Xô được xây dựng trên các đảo không có người như Goli Otok và Sveti Grgur.[60]

Viện trợ của Hoa Kỳ cho Nam Tư

Nam Tư phải đối mặt với những khó khăn kinh tế do hậu quả của sự chia rẽ, vì nền kinh tế kế hoạch của Nam Tư phụ thuộc vào thương mại với Liên Xô và Khối phía Đông. Lo ngại về một cuộc chiến tranh với Liên Xô dẫn đến phí tổn quân sự cao - tăng lên 21,4% thu nhập quốc dân vào năm 1952.[61] Mặc dù Hoa Kỳ coi sự chia rẽ là cơ hội để giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh, họ vẫn tiếp cận một cách thận trọng, bởi không chắc liệu chính sách đối ngoại của Nam Tư có thay đổi trong tương lai.[62]

Nam Tư lần đầu tiên yêu cầu sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1948.[63] Vào tháng 12, Tito thông báo rằng các nguyên liệu thô sẽ được chuyển đến phương Tây để đổi lấy việc tăng cường thương mại.[64] Vào tháng 2 năm 1949, Hoa Kỳ quyết định hỗ trợ kinh tế cho Tito. Đổi lại, Mỹ yêu cầu Nam Tư ngừng viện trợ cho Quân đội Dân chủ Hy Lạp.[65] Cuối cùng, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Dean Acheson cho rằng kế hoạch 5 năm của Nam Tư bắt buộc phải thành công nếu Tito muốn giành được ưu thế trước Stalin. Acheson cũng cho rằng việc ủng hộ Tito là vì lợi ích của Hoa Kỳ, bất kể bản chất của chế độ Tito như thế nào.[66] Viện trợ của Mỹ đã giúp Nam Tư vượt qua những vụ mùa kém năm 1948, 1949 và 1950,[67] nhưng hầu như không có tăng trưởng kinh tế trước năm 1952.[68] Tito cũng nhận được sự ủng hộ của Hoa Kỳ để có được một ghế trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc vào năm 1949,[69] bất chấp sự phản đối của Liên Xô.[67]

Hoa Kỳ bắt đầu cung cấp các khoản vay cho Nam Tư vào năm 1949, và tăng dần các khoản vay vào năm 1950, cũng như cung cấp các khoản trợ cấp lớn.[70] Ban đầu, Nam Tư tránh tìm kiếm viện trợ quân sự từ Hoa Kỳ, tin rằng điều này sẽ tạo cớ cho Liên Xô xâm lược. Đến năm 1951, Nam Tư tin rằng một cuộc tấn công từ Liên Xô là điều không thể tránh khỏi bất kể có nhận viện trợ quân sự từ phương Tây hay không. Do đó, Nam Tư đã được đưa vào Chương trình Hỗ trợ Phòng thủ lẫn nhau của Mỹ.[71]

Phản ứng của Liên Xô và cuộc đảo chính quân sự

Khi cuộc xung đột trở nên công khai vào năm 1948, Stalin bắt tay vào một chiến dịch tuyên truyền chống lại Tito.[72] Các đồng minh của Liên Xô phong tỏa biên giới của họ với Nam Tư; xảy ra 7.877 vụ giao tranh biên giới.[73] Đến năm 1953, các cuộc xâm nhập của Liên Xô hoặc do Liên Xô hậu thuẫn đã dẫn đến cái chết của 27 nhân viên an ninh Nam Tư.[74] Tuy nhiên không rõ liệu Liên Xô có lên kế hoạch can thiệp quân sự nào chống lại Nam Tư hay không. Thiếu tướng Hungary Béla Király, người đã đào tẩu sang Mỹ năm 1956, tuyên bố rằng có tồn tại những kế hoạch như vậy, nhưng nghiên cứu sau đó kết luận những tuyên bố của ông là sai.[75] Nguyên nhân có thể là do phản ứng của Hoa Kỳ đối với Chiến tranh Triều Tiên.[76] Một bức thư Stalin gửi cho Tổng thống Tiệp Khắc Klement Gottwald ngay sau cuộc họp Cục thông tin của Quốc tế tháng 6 năm 1948 gợi ý rằng mục tiêu của Stalin là cô lập Nam Tư, từ đó gây ra sự suy tàn của chế độ, thay vì lật đổ Tito.[77]

Sau Chia rẽ Tito–Stalin, đã có ít nhất một nỗ lực đảo chính do Liên Xô hỗ trợ đã thất bại. Cuộc đảo chính này do Arso Jovanović, Branko Petričević Kadja và Vladimir Dapčević chủ mưu. Âm mưu nhanh chóng bị lật tẩy. Kết quả, lính biên phòng đã giết Jovanović gần Vršac trong khi anh ta đang cố gắng chạy trốn sang România. Petričević bị bắt ở Beograd còn Dapčević bị bắt ngay khi chuẩn bị vượt qua biên giới Hungary.[78] Năm 1952, Bộ An ninh Nhà nước Liên Xô lên kế hoạch ám sát Tito bằng chất độc sinh học, tuy nhiên Stalin đã chết trước khi âm mưu được thực hiện.[79][80]

Ở khối phía Đông, sự chia rẽ với Nam Tư đã dẫn đến việc truy tố những người bị cáo buộc là thân Tito, nhằm tăng cường sự kiểm soát của Stalin đối với các đảng cộng sản trong khối. Kết quả là nhiều người đã đưa ra xét xử như Xoxe, Rudolf Slánský, László Rajk và Traicho Kostov. Hơn nữa, Albania và Bulgaria đã quay lưng lại với Nam Tư và hoàn toàn nghiêng về Liên Xô.[81] Bất kể Quân đội Dân chủ Hy Lạp phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Nam Tư, Đảng Cộng sản Hy Lạp vẫn đứng về phía Cục thông tin của Quốc tế,[82] tuyên bố ủng hộ chia cắt Nam Tư và Macedonia độc lập.[83] Vào tháng 7 năm 1949, Nam Tư cắt đứt sự hỗ trợ và Quân đội Dân chủ Hy Lạp gần như sụp đổ ngay lập tức.[82][84]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chia rẽ Tito – Stalin https://books.google.com/books?id=kVXuDwAAQBAJ https://books.google.com/books?id=_C1zDwAAQBAJ https://babel.hathitrust.org/cgi/pt?id=uva.x001436... https://books.google.com/books?id=p84vDgAAQBAJ https://books.google.com/books?id=wy3TBAAAQBAJ https://books.google.com/books?id=DpcBX2eH0LYC https://books.google.com/books?id=gXvoBAAAQBAJ https://books.google.com/books?id=FTw3lEqi2-oC https://books.google.com/books?id=4PTzicJt3MwC https://books.google.com/books?id=rLLfDwAAQBAJ